Thịnh Hành 5/2024 # Khái Niệm Và Phân Loại Quyền Nhân Thân # Top 8 Yêu Thích

Điều 24 Bộ luật dân sự (BLDS) 2005 quy định: “Quyền nhân thân được quy định trong Bộ luật này là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác“. Quy định này đã nêu lên khái niệm về quyền nhân thân thông qua hai đặc điểm cơ bản là: gắn liền với cá nhân, không chuyển dịch. Nếu chỉ dừng lại ở những đặc điểm đó thì khái niệm quyền nhân thân sẽ vướng phải một số bất cập nhất định sau đây.

Thứ nhất, hai đặc điểm nêu trên thực sự chưa đủ để phân biệt quyền nhân thân với các quyền dân sự khác, bởi lẽ có một số quyền tài sản cũng mang đủ hai đặc điểm này. Pháp luật hôn nhân và gia đình quy định rằng quyền được cấp dưỡng và nghĩa vụ cấp dưỡng cũng được gắn liền với những cá nhân nhất định như: giữa cha mẹ và con, giữa anh chị em với nhau, giữa ông bà và cháu, giữa vợ và chồng. Quyền yêu cầu cấp dưỡng và nghĩa vụ cấp dưỡng không thể thay thế bằng các quyền, nghĩa vụ khác và cũng ” không thể chuyển giao cho người khác” (Điều 50 Luật Hôn nhân và gia đình 2000). Quyền này là quyền tài sản chứ không phải là quyền nhân thân. Điều 309 BLDS 2005 cũng quy định một số quyền tài sản không thể chuyển giao cho người khác như ” quyền yêu cầu cấp dưỡng, yêu cầu bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm uy tín “. Các quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại này được phát sinh khi các quyền nhân thân của cá nhân bị xâm phạm, chúng là quyền tài sản nhưng cũng gắn liền với cá nhân người bị thiệt hại và cũng không dịch chuyển được sang cho chủ thể khác.

Thứ hai, Điều 24 BLDS 2005 quy định rằng quyền nhân thân là quyền ” gắn liền với mỗi cá nhân“, vậy thì các chủ thể khác (như pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác) có các quyền nhân thân của mình không? Điều 604 và Điều 611 BLDS 2005 có đề cấp đến ” danh dự, uy tín của pháp nhân, chủ thể khác“, vậy đây có được coi là quyền nhân thân của pháp nhân và các chủ thể khác không? Điều 1 Nghị quyết số 01/2004/NQ-HĐTP ngày 28/04/2004, cũng như Điều 1 Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, đều quy định giống nhau rằng “Thiệt hại do tổn thất về tinh thần của pháp nhân và các chủ thể khác không phải là pháp nhân (gọi chung là tổ chức) được hiểu là do danh dự, uy tín bị xâm phạm, tổ chức đó bị giảm sút hoặc mất đi sự tín nhiệm, lòng tin … vì bị hiểu nhầm và cần phải được bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất mà tổ chức phải chịu”. Các quy định đó đều hướng tới sự thừa nhận các quyền nhân thân đối với pháp nhân và các chủ thể khác.

Các phân tích trên cho ta thấy phải chăng khái niệm quyền nhân thân nên được mở rộng không những gắn với cá nhân mà với cả các chủ thể khác. Ngoài đặc điểm được nêu tại Điều 24 BLDS 2005, chúng ta cũng nên bổ sung thêm một số đặc điểm nữa (như: gắn liền với giá trị tinh thần, không định giá được, …) để phân biệt quyền nhân thân với các quyền dân sự khác. Từ đó chúng ta có thể xây dựng khái niệm quyền nhân thân như sau: ” Quyền nhân thân là quyền dân sự gắn với đời sống tinh thần của mỗi chủ thể, không định giá được bằng tiền và không thể chuyển giao cho chủ thể khác, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác “.

BLDS 2005 liệt kê tương đối nhiều các quyền nhân thân (từ Điều 26 đến Điều 51), bao gồm: quyền đối với họ tên; quyền thay đổi họ tên; quyền xác định dân tộc; quyền được khai sinh, khai tử; quyền đối với hình ảnh; quyền được đảm bảo an toàn về tính mạng, sức khoẻ, thân thể; quyền hiến bộ phận cơ thể; quyền nhận bộ phận cơ thể người; quyền xác định lại giới tính; quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín; quyền bí mật đời tư; quyền kết hôn, quyền bình đẳng vợ chồng; quyền được hưởng sự chăm sóc giữa các thành viên trong gia đình; quyền ly hôn; quyền nhận, không nhận cha, mẹ, con; quyền được nuôi con nuôi và quyền được nhận làm con nuôi; quyền đối với quốc tịch; quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở; quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; quyền tự do đi lại, tự do cư trú; quyền lao động, quyền tự do kinh doanh; quyền tự do nghiên cứu, sáng tạo. Điều 738 và Điều 751 BLDS 2005 còn quy định thêm một số quyền nhân thân như: quyền đặt tên cho tác phẩm; quyền đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm, được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng; quyền công bố hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm; quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén, xuyên tạc tác phẩm; quyền đứng tên tác giả trong văn bằng bảo hộ sáng chế, kiểu dáng, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, giống cây trồng.

(1) D ựa vào căn cứ phát sinh mà các quyền nhân thân có thể phân thành nhóm các quyền nhân thân không gắn với tài sản và nhóm các quyền nhân thân gắn với tài sản. Phân loại này được thể hiện tại khoản 1 Điều 15 BLDS 2005. Các quyền nhân thân không gắn với tài sản được quy định từ Điều 26 đến Điều 51 BLDS 2005. Các quyền nhân thân không gắn với tài sản này được công nhận đối với mọi cá nhân một cách bình đẳng và suốt đời, không phụ thuộc vào bất cứ hoàn cảnh kinh tế, địa vị hay mức độ tài sản của người đó. Các quyền nhân thân này thể hiện giá trị tinh thần của chủ thể đối với chính bản thân mình, luôn gắn với chính bản thân người đó và không dịch chuyển được sang chủ thể khác.

Ngược lại, các quyền nhân thân gắn với tài sản chỉ được xác lập cùng với sự hình thành của một tài sản vô hình (như tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, sáng chế, kiểu dáng, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, giống cây trồng, …). Đây là quyền nhân thân của chủ thể đối với tài sản vô hình mà người đó sáng tạo ra. Các quyền nhân thân này được quy định tại khoản 2 Điều 738 và mục a khoản 1 Điều 751 BLDS 2005. Trong số các quyền này có một quyền có thể chuyển giao được sang cho chủ thể khác – đó là quyền công bố hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm (theo quy định tại Khoản 1 Điều 742 BLDS 2005).

(2) D ựa vào chủ thể mang quyền mà các quyền nhân thân có thể được phân thành hai nhóm là: Nhóm các quyền nhân thân của cá nhân và nhóm các quyền nhân thân của các chủ thể khác (không phải là cá nhân). Các quyền nhân thân của cá nhân bao gồm các quyền nhân thân được quy định từ Điều 26 đến Điều 51 BLDS 2005 và các quyền nhân thân gắn với tài sản được quy định tại Điều 738 BLDS 2005. Các quyền nhân thân của pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác có thể bao gồm: quyền được bảo vệ danh dự, uy tín (được đề cập đến tại Điều 604 và Điều 611 BLDS 2005). Theo chúng tôi, có thể thừa nhận thêm một số quyền nhân thân của pháp nhân như quyền đối với tên gọi, quyền tự do kinh doanh đối với các chủ thể có đăng ký kinh doanh.

Việc phân loại này giúp chúng ta nhận diện được chính xác nội dung năng lực pháp luật của từng chủ thể khi tham gia vào các quan hệ dân sự. Mặc dù chỉ là chủ thể hư cấu, chỉ có ý nghĩa về mặt pháp lý, nhưng pháp nhân, hộ gia đình và tổ hợp tác cũng có ” đời sống tinh thần ” của riêng mình, có những giá trị phi vật chất, không định giá được và không thể chuyển giao được cho chủ thể khác, và các giá trị đó cần phải được bảo vệ khỏi sự xâm phạm bất hợp pháp.

(3) D ựa vào đối tượng của quyền mà các quyền nhân thân được phân thành 5 nhóm sau đây:

1) Nhóm các quyền cá biệt hoá chủ thể, bao gồm: quyền đối với họ tên; quyền thay đổi họ tên; quyền xác định dân tộc; quyền được khai sinh, khai tử; quyền đối với hình ảnh; quyền xác định lại giới tính; quyền đối với quốc tịch.

5) Nhóm các quyền đối với các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ: quyền đặt tên cho tác phẩm; quyền đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm hay trên văn bằng bảo hộ (đối với sáng chế, kiểu dáng, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, giống cây trồng), quyền được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng; quyền công bố hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm; quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén, xuyên tạc tác phẩm.

Trong phân loại này, mỗi nhóm nêu trên có những đặc điểm pháp lý riêng biệt. Nhóm các quyền cá biệt hoá chủ thể được thể hiện dưới hình thức các công cụ cá biệt hoá khác nhau ở mỗi chủ thể (mỗi người có tên gọi và hình ảnh và các yếu tố lý lịch khác nhau). Tập hợp các công cụ cá biệt hoá đó ở mỗi chủ thể sẽ cho ta được sự hình dung bên ngoài về chủ thể đó khác biệt với các chủ thể khác. Quyền “thể hiện mình” được bảo vệ một cách tuyệt đối trước sự xâm phạm của bất kỳ chủ thể khác, và được bảo vệ theo yêu cầu của chủ thể quyền.

(4) D ựa vào thời hạn bảo hộ mà các quyền nhân thân được phân loại thành hai nhóm: Nhóm các quyền nhân thân được bảo hộ vô thời hạn và nhóm các quyền nhân thân được bảo hộ có thời hạn.

Nhóm các quyền nhân thân được bảo hộ vô thời hạn bao gồm: quyền đối với họ tên; quyền đối với hình ảnh; quyền được bảo vệ danh dự, uy tín; quyền bí mật đời tư; quyền đứng tên thật hoặc bút danh trên tác ph m, được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng; quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén, xuyên tạc tác phẩm.

Nhóm các quyền nhân thân được bảo hộ có thời hạn bao gồm: quyền thay đổi họ tên; quyền xác định dân tộc; quyền được khai sinh, khai tử; quyền được đảm bảo an toàn về tính mạng, sức khoẻ, thân thể; quyền được bảo vệ nhân phẩm; quyền hiến bộ phận cơ thể; quyền nhận bộ phận cơ thể người; quyền xác định lại giới tính; quyền kết hôn, quyền bình đẳng vợ chồng; quyền được hưởng sự chăm sóc giữa các thành viên trong gia đình; quyền ly hôn; quyền nhận, không nhận cha, mẹ, con; quyền được nuôi con nuôi và quyền được nhận làm con nuôi; quyền đối với quốc tịch; quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở; quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; quyền tự do đi lại, tự do cư trú; quyền lao động, quyền tự do kinh doanh; quyền tự do nghiên cứu, sáng tạo; quyền đặt tên cho tác phẩm; quyền công bố hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm;

Đối với các quyền thuộc nhóm vô thời hạn, chúng ta nên lưu ý phân biệt giữa việc thực hiện quyền yêu cầu chấm dứt hành vi xâm phạm với việc thực hiện quyền công bố, cho phép sử dụng các thông tin của cá nhân. Sau khi một người chết đi thì những người thân thích được quyền yêu cầu chấm dứt các hành vi xâm phạm đến họ tên, hình ảnh, danh dự, uy tín, bí mật đời tư, tên trên tác phẩm, xâm phạm toàn vẹn tác phẩm của người đó. Tuy nhiên, khác với chính chủ thể quyền nhân thân, những người thân thích này không được quyền thay đổi tên gọi, thay đổi nội dung tác phẩm. Các thông tin cá nhân (bí mật đời tư hay tác phẩm chưa được công bố) mà khi còn sống người đó không muốn tiết lộ (vì lý do hết sức riêng tư) thì sau khi người đó qua đời những người thân thích cũng không được quyền công bố. Điều này thể hiện sự tôn trọng đối với cá nhân đã khuất. Tuy nhiên, khoản 2 Điều 38 BLDS 2005 lại quy định những người thân thích được quyền cho phép thu thập, công bố bí mật đời tư của cá nhân sau khi cá nhân đó chết đi. Với quy định này thì liệu mỗi người trong số chúng ta khi chết đi có thể yên tâm không khi biết rằng mọi bí mật đời tư của mình sẽ được người khác biết đến? Cũng như vậy đối với các tác phẩm chúng ta không muốn công bố vì được sáng tác dành riêng cho một người yêu quý thì sau này cũng sẽ được công bố rộng rãi ngoài mong muốn của chúng ta?

Nhóm các hành vi xâm phạm tác động vào các chủ thể khác (không phải là chủ thể quyền) bao gồm: quyền được bảo vệ danh dự, uy tín; quyền bí mật đời tư; quyền đối với họ tên; quyền công bố hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm;

Việc phân loại dựa trên đặc điểm của hành vi xâm phạm có ý nghĩa quan trọng trong việc nhận diện và chứng minh hành vi xâm phạm. Khi nộp đơn yêu cầu cơ quan nhà nước bảo vệ trước những hành vi xâm phạm quyền nhân thân của mình thì chủ thể quyền phải chỉ ra được các hành vi xâm phạm và chứng minh rằng hành vi đó đã trực tiếp xâm hại đến quyền nhân thân của mình. Hơn thế nữa, việc phân tích đặc điểm của hành vi xâm phạm sẽ giúp ích cho việc khôi phục lại các giá trị nhân thân bị xâm phạm.

Đối với các quyền thuộc nhóm thứ hai thì hành vi xâm hại lại không tác động vào chính chủ thể quyền, mà tác động vào các chủ thể khác làm ảnh hưởng đến sự nhìn nhận, đánh giá của các chủ thể khác về cá nhân chủ thể mang quyền (tung tin thất thiệt xúc phạm danh dự, giảm uy tín của chủ thể quyền, công bố trái phép tác phẩm của tác giả trước công chúng, …). Những thiệt hại mà chủ thể quyền phải gánh chịu có thể được xoá bỏ bằng việc cải chính, xin lỗi công khai trên các phương tiên thông tin đại chúng để xoá đi sự nhìn nhận tiêu cực của các chủ thể khác đối với chủ thể quyền do hành vi xâm hại gây ra.

Cần lưu ý rằng trong cách phân loại này có sự giao thoa nhất định giữa các nhóm. Có những quyền nhân thân thuộc cả hai nhóm trong ba nhóm nêu trên. Ví dụ như: hành vi xâm phạm bí mật đời tư có thể biểu hiện bằng hành vi tác động vào các chủ thể khác (công bố thông tin đời tư) cũng như bằng hành vi tác động vào vật phẩm mang thông tin về bí mật đời tư (bóc mở thư tín, điện tín, …).

(6) D ựa vào phương thức bảo vệ mà các quyền nhân thân được phân thành hai nhóm: Nhóm các quyền được bảo vệ khi có yêu cầu và nhóm được bảo vệ không phụ thuộc vào yêu cầu.

Nhóm các quyền được bảo vệ khi có yêu cầu bao gồm: quyền đối với họ tên; quyền thay đổi họ tên; quyền xác định dân tộc; quyền được khai sinh, khai tử; quyền đối với hình ảnh; quyền hiến bộ phận cơ thể; quyền nhận bộ phận cơ thể người; quyền xác định lại giới tính; quyền đư c bảo vệ danh dự, uy tín; quyền bí mật đời tư; quyền kết hôn; quyền bình đẳng vợ chồng; quyền ly hôn; quyền nhận, không nhận cha, mẹ, con; quyền được nuôi con nuôi và quyền được nhận làm con nuôi; quyền đối với quốc tịch; quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở; quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; quyền tự do đi lại, tự do cư trú; quyền lao động, quyền tự do kinh doanh; quyền tự do nghiên cứu, sáng tạo; quyền đặt tên cho tác phẩm; quyền đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm, được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng; quyền công bố hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm; quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén, xuyên tạc tác phẩm.

Nhóm được bảo vệ không phụ thuộc vào yêu cầu bao gồm: quyền được đảm bảo an toàn về tính mạng, sức khoẻ, thân thể; quyền được bảo vệ nhân phẩm; quyền được hưởng sự chăm sóc giữa các thành viên trong gia đình.

Nhưng đối với các quyền nhân thân thuộc nhóm thứ hai thì Nhà nước sẽ chủ động can thiệp vào chống lại hành vi xâm phạm ngay cả khi không có yêu cầu. Ví dụ như các hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, thân thể của người khác, các hành vi bạo lực, xâm phạm nhân phẩm hay các hành vi xâm phạm quyền được hưởng sự chăm sóc của trẻ em, …