Trắc Nghiệm Lịch Sử: Nước Ta Trải Qua Mấy Quốc Hiệu?

D. 1986

D. 1976

D. 11

D. Việt Nam

Văn Lang là quốc hiệu đầu tiên của nước ta, xuất hiện từ thời các vua Hùng.

Tháng 2/544, sau khi đánh bại quân nhà Lương, Lý Bí xưng đế, đặt tên nước là Vạn Xuân.

Quốc hiệu Đại Cồ Việt xuất hiện từ thời vua Đinh Bộ Lĩnh.

Năm 1054, vua Lý Thánh Tông đổi tên nước ta từ Đại Cồ Việt thành Đại Việt.

Sau khi giành ngôi nhà Trần năm 1400, Hồ Quý Ly đổi quốc hiệu nước ta thành Đại Ngu (Ngu Thuấn).

Quốc hiệu Việt Nam xuất hiện lần đầu vào năm 1804, dưới thời vua Gia Long.

Quốc hiệu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời năm 1945 khi Bác Hồ đọc bản Tuyên ngôn độc lập.

Quốc hiệu CHXHCN Việt Nam được thông qua tại kỳ họp đầu tiên Quốc hội nước Việt Nam thống nhất vào ngày 2/7/1976.

Nước ta đã có tổng cộng 10 quốc hiệu được sử dụng.

Đại Việt tồn tại lâu nhất, khoảng 743 năm, trải qua các vương triều Lý, Trần, Lê, Mạc và Tây Sơn.

Văn Lang (chữ Hán: 文郎) được coi là quốc hiệu đầu tiên của Việt Nam. Quốc gia này có kinh đô đặt ở Phong Châu nay thuộc tỉnh Phú Thọ. Lãnh thổ bao gồm khu vực đồng bằng sông Hồng và ba tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh bây giờ. Quốc gia này tồn tại cho đến năm 258 TCN.

Năm 257 TCN, nước Âu Lạc (甌雒, 甌駱, 甌貉) được dựng lên, từ việc liên kết các bộ lạc Lạc Việt (Văn Lang) và Âu Việt, dưới uy thế của Thục Phán - An Dương Vương. Âu Lạc có lãnh thổ bao gồm phần đất của Văn Lang trước đây cộng thêm vùng núi Đông Bắc Việt Nam và một phần tây nam Quảng Tây (Trung Quốc).

Khoảng cuối thế kỷ thứ 3 TCN, đầu thế kỷ thứ 2 TCN (năm 208 TCN hoặc 179 TCN, Triệu Đà (Quận úy Nam Hải-nhà Tần) tung quân đánh chiếm Âu Lạc. Cuộc kháng cự của An Dương Vương thất bại, nhà nước Âu Lạc bị xóa sổ.

Năm 40, Hai Bà Trưng đã khởi nghĩa chống lại sự cai trị của nhà Hán. Sử cũ ghi chép hai bà đã lấy được 65 thành trì của nhà Hán tại các quận Nhật Nam, Cửu Chân, Giao Chỉ, Hợp Phố, Nam Hải,... Hai bà xưng vương, với câu hịch , lập tên nước là Lĩnh Nam, đóng đô tại Mê Linh, ngày nay thuộc huyện Mê Linh, Hà Nội. Trưng Trắc được bầu làm vua (Đế) của Lĩnh Nam, Trưng nhị được bầu làm vương của Giao chỉ, sáu quận của Lĩnh Nam là: Nhật Nam, Cửu Chân, Giao chỉ, Tượng Qu& #7853;n, Nam Hải và Quế Lâm mỗi quận có một vương gia. Năm 43 khởi nghĩa Hai bà Trưng bị đàn áp, bắt đầu thời kỳ Bắc thuộc lần II.

Vạn Xuân (萬春) là quốc hiệu của Việt Nam trong một thời kỳ độc lập ngắn ngủi khỏi triều đình trung ương Trung Hoa của nhà Tiền Lý dưới sự lãnh đạo của Lý Nam Đế. Quốc hiệu này tồn tại từ năm 544 đến năm 602 thì bị nhà Tùy tiêu diệt.

Đại Cồ Việt (大瞿越) là quốc hiệu của Việt Nam từ thời nhà Đinh đến đầu thời nhà Lý, do Đinh Tiên Hoàng thiết đặt năm 968. Quốc hiệu này tồn tại 86 năm cho đến năm 1054, đời vua Lý Thánh Tông đổi sang quốc hiệu khác.

Đại Việt (大越) là quốc hiệu của Việt Nam từ thời nhà Lý, bắt đầu từ năm 1054, khi vua Lý Thánh Tông lên ngôi. Quốc hiệu này tồn tại không liên tục (gián đoạn 7 năm thời nhà Hồ và 20 năm thời thuộc Minh), đến năm 1804, trải qua các vương triều Lý, Trần, Lê, Mạc và Tây Sơn, khoảng 724 năm.

Đại Ngu (大虞) là quốc hiệu của Việt Nam thời nhà Hồ. Quốc hiệu Đại Việt được đổi thành Đại Ngu năm 1400 khi Hồ Quý Ly lên nắm quyền. Sau khi nhà Hồ bị thất bại trước nhà Minh, và nhà Hậu Lê giành lại độc lập cho Việt Nam, quốc hiệu của Việt Nam đổi lại thành Đại Việt.

Về quốc hiệu này, theo truyền thuyết, họ Hồ là con cháu Ngu Thuấn (là một trong Ngũ Đế nổi tiếng ở Trung Hoa thời thượng cổ); sau này con Ngu Yên là Vĩ Mãn được Chu Vũ Vương của nhà Chu phong cho ở đất Trần gọi là Hồ Công, sau dùng chữ Hồ làm tên họ. Hồ Quý Ly nhận mình là dòng dõi họ Hồ, con cháu Ngu Thuấn, nên đặt quốc hiệu là Đại Ngu. Chữ Ngu (虞) ở đây có nghĩa là "sự yên vui, hòa bình", chứ không có nghĩa là "ngu si" (愚癡).

Quốc hiệu Việt Nam (越南) chính thức xuất hiện vào thời nhà Nguyễn. Vua Gia Long đã đề nghị nhà Thanh công nhận quốc hiệu Nam Việt, với lý lẽ rằng "Nam" có ý nghĩa "An Nam" còn "Việt" có ý nghĩa "Việt Thường". Tuy nhiên tên Nam Việt trùng với quốc hiệu của quốc gia cổ Nam Việt thời nhà Triệu, gồm cả Quảng Đông và Quảng Tây của Trung Hoa lúc bấy giờ. Nhà Thanh yêu cầu nhà Nguyễn đổi ngược lại thành Việt Nam để tránh nhầm lẫn, và chính thức tuyên phong tên này năm 1804.

Tuy nhiên, tên gọi Việt Nam có thể đã xuất hiện sớm hơn. Ngay từ cuối thế kỷ 14, đã có một bộ sách nhan đề (nay không còn) do Hàn lâm viện học sĩ Hồ Tông Thốc biên soạn. Cuốn viết đầu thế kỷ 15 của Nguyễn Trãi (1380-1442) nhiều lần nhắc đến hai chữ "Việt Nam". Điều này còn được đề cập rő ràng trong những tác phẩm của trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585), ngay trang mở đầu tập đã có câu: "Việt Nam khởi tổ xây nền".

Người ta cũng tìm thấy hai chữ "Việt Nam" trên một số tấm bia khắc từ thế kỷ 16-17 như bia chùa Bảo Lâm (1558) ở Hải Dương, bia chùa Cam Lộ (1590) ở Hà Nội, bia chùa Phúc Thánh (1664) ở Bắc Ninh... Đặc biệt bia Thủy Môn Đình (1670) ở biên giới Lạng Sơn có câu đầu: "Việt Nam hầu thiệt, trấn Bắc ải quan" (đây là cửa ngő yết hầu của nước Việt Nam và là tiền đồn trấn giữ phương Bắc). Về ý nghĩa, phần lớn các giả thuyết đều cho rằng từ "Việt Nam" kiến tạo bởi hai yếu tố ;: chủng tộc và địa lý (người Việt ở phương Nam).

Năm 1820, vua Minh Mạng lên ngôi xin nhà Thanh cho phép đổi quốc hiệu Việt Nam thành Đại Nam (大南), ngụ ý một nước Nam rộng lớn. Tuy nhiên nhà Thanh đã không chính thức chấp thuận. Khi nhà Thanh bắt đầu suy yếu, vua Minh Mạng chính thức đơn phương công bố quốc hiệu mới Đại Nam vào ngày 15 tháng 2 năm 1839. Quốc hiệu này tồn tại đến năm 1945.

Sau khi Nhật đảo chính Pháp vào ngày 9 tháng 3 năm 1945, hoàng đế Bảo Đại tuyên bố độc lập và thành lập chính phủ độc lập trên danh nghĩa vào ngày 17 tháng 4 năm 1945, đứng đầu là nhà học giả Trần Trọng Kim, với quốc hiệu Đế quốc Việt Nam. Trong thực tế Đế quốc Nhật Bản vẫn cai trị Việt Nam. Sau khi Nhật đầu hàng quân Việt Minh, Nam Kỳ mới được trao trả ngày 14 tháng 8 năm 1945, nhưng 10 ngày sau đó Hoàng đế Bảo Đại thoái vị. Nhật và Hoàng đế Bảo Đại tuyên bố trao lại chủ quyền Việt Nam cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là tên gọi của cả nước Việt Nam 1945 đến 1954 và miền Bắc Việt Nam từ 1954 đến 1976. Nhà nước này được thành lập vào ngày 2 tháng 9 năm 1945 (ngày Quốc khánh của Việt Nam ngày nay).

Năm 1946, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tổ chức Tổng tuyển cử trên phạm vi cả nước để chính thức thành lập Quốc hội và Chính phủ khóa I. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải đối đầu với thực dân Pháp và Quốc gia Việt Nam được lập ra dưới cái ô của Pháp năm 1949. Trong thời kỳ 1954-1975, chính thể này phải đối đầu với Việt Nam Cộng hòa được thành lập tại miền Nam Việt Nam.

Quốc gia Việt Nam là danh xưng của một phần vùng lãnh thổ Việt Nam mặc dù tuyên bố đại diện cho cả nước, ra đời chính thức từ Hiệp ước Elysée ký ngày 8 tháng 3 năm 1949, giữa Tổng thống Pháp Vincent Auriol và Cựu hoàng Bảo Đại.

Thực tế, chính quyền Quốc gia Việt Nam vẫn thuộc khối Liên hiệp Pháp, độc lập, đối kháng và tồn tại trên cùng lãnh thổ với chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Danh xưng Quốc gia Việt Nam tồn tại trong 6 năm (1949-1955). Năm 1955, Ngô Đình Diệm phế truất Quốc trưởngBảo Đại, giải tán Quốc gia Việt Nam, thành lập chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Trong suốt thời gian tồn tại, Quốc gia Việt Nam chưa từng tổ chức được Tổng tuyển cử trên phạm vi cả nước như Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đ ã làm năm 1946.

Việt Nam Cộng hòa là tên gọi của một chính thể được thành lập tại miền Nam Việt Nam, kế tục Quốc gia Việt Nam (1949-1955). Trong Cuộc trưng cầu dân ý miền Nam Việt Nam, 1955, thủ tướng Ngô Đình Diệm đã phế truất Quốc trưởng Bảo Đại, thành lập chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Chính quyền này sụp đổ vào năm 1975.

Cộng hòa miền Nam Việt Nam là một chính thể cũng ở miền Nam Việt Nam, tồn tại từ năm 1969 tới 1976. Chính thể này được thành lập dựa trên cơ sở là những cán bộ Việt Minh được giữ lại miền Nam để chuẩn bị cho Tổng tuyển cử thống đất nước dự kiến được tổ chức năm 1957 (theo Hiệp định Geneve 1954 thì chỉ tập kết quân sự, các thành phần chính trị ở nguyên tại chỗ để chuẩn bị tổng tuyển cử thành lập chính phủ hòa hợp dân tộc).

Cộng hòa miền Nam Việt Nam có mục tiêu chống Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa đế thống nhất đất nước. Sau cuộc Tổng tuyển cử năm 1976, Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hợp nhất thành Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

Ngày 2 tháng 7 năm 1976, Quốc hội khóa VI quyêt định thống nhất Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Cộng hòa miền Nam Việt Nam với tên gọi Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hiệu này được sử dụng từ đó đến nay.

  • Đại Việt (1054 - 1400, 1428 - 1804) là quốc hiệu lâu dài nhất của Việt Nam với 724 năm:
    • Nhà Hậu Lý
    • Nhà Trần
    • Nhà Hậu Lê
    • Nhà Mạc
    • Chúa Trịnh, Chúa Nguyễn
    • Nhà Tây Sơn
    • Nhà Nguyễn những năm đầu
  • Đại Nam (1839 - 1945) là quốc hiệu lâu dài thứ hai với 107 năm:
  • Nam Việt (207 TCN - 111 TCN) là quốc hiệu lâu dài thứ ba với 97 năm:
  • Đại Cồ Việt (968 - 1054) là quốc hiệu lâu dài thứ tư với 87 năm:
    • Nhà Đinh
    • Nhà Tiền Lê
    • Nhà Hậu Lý những năm đầu
  • Vạn Xuân (544 - 602) là quốc hiệu lâu dài thứ năm với 59 năm:
  • Âu Lạc (257 TCN - 207 TCN?) là quốc hiệu lâu dài thứ sáu với 51 năm ():
  • Việt Nam (1804 - 1839) là quốc hiệu ngắn thứ ba với 36 năm:
  • Đại Ngu (1400 - 1407) là quốc hiêu ngắn thứ hai với 8 năm:
  • Lĩnh Nam (40 - 43) là quốc hiệu ngắn nhất với 4 năm:

Xích Quỷ và Văn Lang được xem là các quốc hiệu đầu tiên của Việt Nam nhưng vì thiếu thông tin chính xác về thời điểm nên khó xác nhận thời gian tồn tại của quốc hiệu này.

Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là quốc hiệu hiện tại của Việt Nam từ năm 1976 đến nay.

  • Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1945 - 1976) là quốc hiệu lâu dài nhất với 32 năm
  • Việt Nam Cộng hòa (1955 - 1975) là quốc hiệu lâu dài thứ hai với 21 năm
  • Cộng hòa Miền Nam Việt Nam (1969 - 1976) là quốc hiệu ngắn thứ ba với 8 năm
  • Quốc gia Việt Nam (1949 - 1955) là quốc hiệu ngắn thứ hai với 7 năm
  • Đế quốc Việt Nam (1945) là quốc hiệu ngắn nhất với 1 năm
Next Post Previous Post